Việt Nam ở đâu trên giáo dục thế giới?

(GDVN) – Nhìn vào bản đồ giáo dục thế giới, ta không thấy Việt Nam đâu cả! Trí ta đã có, lực ta đã sẵn nhưng thế giới chưa biết xếp ta vào vị trí nào !!!

TS. Phạm Ngọc Hiền, Giảng viên khoa Xã hội, trường ĐH Sài Gòn băn khoăn rằng không tìm thấy Việt Nam trên bản đồ giáo dục thế giới. Bằng sự hiểu biết, ông đã đưa ra quan điểm của mình về vấn đề này.

Để phát triển nền giáo dục nước nhà, ta cần nhận thức được vị trí của mình trong mối tương quan với các nước khác. Muốn biết rõ hơn Việt Nam hiện nay đang đứng ở đâu trên bản đồ giáo dục thế giới, trước hết, ta hãy nhìn lại những vị thế của giáo dục Việt Nam trong quá khứ.

Việt Nam đã từng tiếp xúc mật thiết với các nền giáo dục hàng đầu thế giới. Thời phong kiến, ta chịu ảnh hưởng sâu sắc giáo dục Trung Quốc, lấy Nho giáo làm nền tảng triết lý giáo dục.

Hệ thống giáo dục Trung Quốc thuộc hàng đồ sộ thế giới, qua đó, Việt Nam cũng tiếp thu nhiều tinh hoa của giáo dục nhân loại.

Chúng ta có quyền tự hào về thành tích khoa cử và những di sản văn hóa, giáo dục mà cha ông để lại. Có lẽ trong nền giáo dục châu Á thời trung đại, Việt Nam chỉ đứng sau Trung Quốc.

Thời cận đại, giáo dục Việt Nam rẽ theo quỹ đạo Phương Tây, chịu ảnh hưởng sâu sắc nền giáo dục Pháp – trung tâm văn minh thế giới. Ta đã hình thành một hệ thống giáo dục bài bản, đào tạo ra những trí thức bậc cao, nhiều người nổi tiếng thế giới.

Trong bản đồ giáo dục thế giới thời đó, Việt Nam đứng trong hệ thống giáo dục Pháp (nếu tính yếu tố hiện đại, ở châu Á, có lẽ ta chỉ đứng sau Nhật).

Ở miền Nam giai đoạn 1954 – 1975, bên cạnh tiếp thu những thành tựu giáo dục từ thời phong kiến và Pháp thuộc, nay bổ sung thêm những thành tựu giáo dục của Mỹ – nền giáo dục hiện đại nhất thế giới.

1_4
Nhận dạng một số khoảng cách và sự khác biệt giữa thế giới và Việt Nam về giáo dục đại học trước xu thế toàn cầu hóa (Ảnh: voer.edu.vn)

Hệ thống giáo dục đại học phát triển lên một tầm cao mới, trong đó có Viện đại học Sài Gòn đạt đẳng cấp quốc tế, đào tạo cả cử nhân, thạc sĩ, tiến sĩ. Nền giáo dục Việt Nam cộng hòa đứng trong hệ thống giáo dục Tư bản chủ nghĩa và là một trong những nền giáo dục hàng đầu châu Á.

Ở miền Bắc sau 1954, hệ thống giáo dục chuyển sang quỹ đạo xã hội chủ nghĩa (XHCN), chịu ảnh hưởng sâu sắc mô hình giáo dục Liên Xô từ mục tiêu đào tạo, chương trình học đến quan điểm học thuật…

Các trí thức được đào tạo từ Liên Xô, Đông Âu, Trung Quốc… về đã tạo ra một không khí mới cho giáo dục Việt Nam, làm nên một số thành tựu nổi bật trong lĩnh vực khoa học cơ bản, nhất là Toán học. Trong bản đồ giáo dục thế giới 1955 – 1990, Việt Nam đứng trong hệ thống giáo dục XHCN.

Sau khi hệ thống XHCN tan rã, giáo dục Việt Nam rơi vào bi kịch vì không biết tựa vào đâu. Những thành tựu của giáo dục Trung Quốc, Pháp, Mỹ, Liên Xô… vẫn còn đó tạo ra thế mạnh nhưng cũng là vấn đề khó khăn vì không biết vận dụng và lắp ghép chúng sao cho hợp lý.

Người chủ trương theo mô hình này thì bị người theo mô hình kia phản đối. Người ta cũng dung hợp các mô hình lại nhưng mỗi vị lãnh đạo thiết kế theo một kiểu khác nhau, làm nửa chừng phải bỏ, rồi làm lại…. Suốt 23 năm nay, người ta vẫn loay hoay tranh cãi chưa biết giáo dục Việt Nam nên đặt bệ phóng ở đâu.

Sau Đổi mới, giáo dục Việt Nam đạt được những thành tựu lớn. Tuy nhiên, ta phát triển thì các nước khác cũng phát triển, vậy giáo dục của ta đứng ở vị thứ nào? Nhìn vào danh sách các trường đại học hàng đầu thế giới, Việt Nam không có.

Nhìn vào giải Nobel và các thành tựu khoa học lớn, ta cũng không có. Nếu có người Việt Nam nào tài giỏi thì vinh dự đã thuộc về nước khác mất rồi ! Việt Nam chỉ có công sinh thành chứ không có công dưỡng dục các nhân tài đẳng cấp quốc tế.

Thế giới thừa nhận người Việt Nam thông minh, cần cù nhưng hình như chúng ta chưa biết sử dụng những ưu thế đó để làm việc gì thích hợp. Có thể ta đã dùng nó vào những việc lạc hậu như học thuộc lòng các loại kinh kệ cổ lỗ thay vì phải viết ra một cuốn sách mới.

Nhiều nhà khoa học có tư duy hiện đại, năng động nhưng không có đất dụng võ ở Việt Nam. Lâu nay, ta chỉ quen mang tiền đi học nước ngoài chứ không thu hút sinh viên nước ngoài mang đô-la sang học Việt Nam. Như vậy giáo dục Việt Nam chưa có vị trí nào trên thương trường thế giới.

Có người tự hào rằng, tỷ số GDP đầu tư cho giáo dục của Việt Nam rất lớn so với nhiều nước khác. Việc này chẳng nói lên điều gì vì không biết số tiền ấy sẽ rơi vào túi ai và cơ chế bao cấp không giúp ích cho sự cạnh tranh giáo dục.

Có người chủ trương bỏ ra khoản tiền khổng lồ phổ cập trung học (để khoe với thế giới).

Xin thưa rằng, cơ chế nước ta còn tạo điều kiện phổ cập cả bậc cử nhân ! Nhưng nếu Việt Nam là nước đầu tiên thế giới phổ cập Đại học thì liệu có ra khỏi danh sách các nước nghèo ?!!

Nhiều cơ quan vẽ ra chỉ tiêu (và hợp thức hóa) bao nhiêu phần trăm thạc sĩ, tiến sĩ để nâng tầm giáo dục. Thực ra, đó cũng là một dạng của bệnh thành tích, bệnh háo danh đang gây cản trở trên đường hội nhập.

Ta coi trọng danh hão nên đào tạo cái bằng để hợp thức hóa việc làm và chức vụ trong các cơ quan nhà nước. Trong khi đó, nền kinh tế thị trường cần người thực tài, cho nên kỹ sư của ta ra nước ngoài bị chê, phải đào tạo lại. Bằng đại học ở Việt Nam hiện nay hầu như không có giá trị quốc tế.

Nhìn vào bản đồ giáo dục thế giới, ta không thấy Việt Nam đâu cả! Trí ta đã có, lực ta đã sẵn nhưng có lẽ do ta chưa xác định rõ mình phải đứng ở đâu nên thế giới chưa biết xếp ta vào vị trí nào !!!

Bài biết thể hiện quan điểm, góc nhìn và cách hành văn của riêng tác giả.

TS. Phạm Ngọc Hiền